Những đứa con của nửa đêm
Phan_50
... Trong óc tôi lóe lên hình ảnh về một túp lều: con trai tôi! Và, không chỉ con trai tôi: một cái ống nhổ bạc, khảm thanh kim thạch! Đâu đó trong cơn hỗn loạn của ghetto, một đứa bẻ đã bị bỏ lại một mình... đâu đó một tấm bùa hộ mệnh, được giữ gìn cẩn thận bấy lâu đã bị bỏ quên. Thánh đường Thứ sáu bàng quan nhìn tôi chạy hụp rẽ ngoặt giữa những căn lều nghiêng ngả, đôi chân tôi đưa tôi đến chỗ đứa con tai phấp phới và chiếc ống nhổ... nhưng tôi có cơ hội nào trước cặp đầu gối ấy? Cặp đầu gối của người hùng thời chiến đã đuổi tới gần rất gần, đôi khớp gối của vị thần báo ứng đang sầm sập về phía tôi, và hắn nhảy vọt đến, đôi chân người hùng thời chiến bay vút qua không trung, như hàm răng nghiến quanh cổ tôi, vắt hơi thở khỏi họng tôi, tôi đổ xuống quằn quại nhưng đôi đầu gối vẫn siết chặt, và giờ một giọng nói - giọng nói của sự bội bạc phản phúc thù hận! - vang lên, khi đầu gối đè lên ngực tôi và ghim chặt tôi xuống nền đất của khu ổ chuột: “Chà, công tử bột: ta lại gặp nhau rồi. Salaam.” Tôi khò khè; Shiva mỉm cười.
Ôi hàng khuy bóng nhoáng trên quân phục kẻ phản bội! Lấp lánh nhấp nhánh như bạc... tại sao hắn làm vậy? Tại sao hắn, kẻ từng cầm đầu đám du côn vô chính phủ ở khu ổ chuột Bombay, lại biến thành chiến tướng của bạo quyền? Tại sao đứa trẻ của nửa đêm lại phản bội những đứa trẻ nửa đêm khác, và ném tôi vào tay định mệnh? Vì thích bạo lực, vì ánh lấp lánh chính danh của hàng khuy trên quân phục? Vì nỗi ác cảm xa xưa đối với tôi? Hay - tôi thấy điều này hợp lý hơn cả - để đổi lấy việc được miễn xá mọi hình phạt mà tất cả chúng tôi phải chịu... phải, hẳn thế rồi; Ôi người hùng thời chiến bị tước đoạt mọi quyền vị lúc chào đời! Ôi địch thủ bị tha hóa vì một bát cháo đậu[2]... Nhưng không, tôi không được dông dài nữa, và phải kể câu chuyện càng đơn giản càng tốt: khi quân lính lùng sục bắt bớ lôi kéo các nhà ảo thuật ra khỏi ghetto, Thiếu tá Shiva chỉ tập trung vào tôi. Tôi cũng bị thô bạo lôi về phía một chiếc xe hòm; trong khi xe ủi đất tiến vào khu ổ chuột, một cánh cửa đóng sập lại... trong bóng tối tôi gào lên, “Còn con tôi! - Còn Parvati, em đâu rồi, Laylah của tôi? – Picture Singh! Cứu em, Pictureji!” - Nhưng xe ủi đã lăn bánh, và chẳng ai nghe thấy tôi gào thét.
[2] Theo Thánh kinh của người Do Thái, Esau và Jacob là con của Isaac. Một lần vì quá đói, Esau đã bán quyền trưởng nam cho Jacob để đổi lấy một bát cháo đậu.
Parvati-phù-thủy, sau khi cưới tôi, đã trở thành nạn nhân của lời nguyền chết thảm hằng đeo đuổi tất cả người thân của tôi... Tôi không rõ Shiva, sau khi nhốt tôi lên chiếc xe hòm tối tăm bít bùng, có đi tìm em không, hay hắn bỏ mặc em cho xe ủi đất... bởi lúc này những cỗ máy hủy diệt như cá gặp nước, và những túp lều tồi tàn bé nhỏ của khu dân cư xập xệ đang điên cuồng chui tọt trôi tuột vào dưới bước tiến vũ bão của những sinh vật bất khả kháng cự ấy, chòi lán gãy rắc như cành khô, hộp các tông của nghệ nhân múa rối và giỏ thần kỳ của ảo thuật gia bị nghiền nát thành một mớ hổ lốn; thành phố đang được làm đẹp, và nếu dăm người chết, nếu một cô gái với cặp mắt to tròn và đôi môi bĩu ra vì đau khổ có ngã dưới bánh xe của những cỗ cự xa, hà, thì đã sao, một vết nhơ đang được xóa bỏ khỏi bộ mặt của thủ đô ngàn năm văn hiến... và có tin đồn rằng, trong cơn giẫy chết của ghetto của giới ảo thuật, một người khổng lồ râu rậm, người quấn đầy rắn (nhưng điểm này có thể là phóng đại) lao - HẾT TỐC LỰC - giữa đống đổ nát, chạy điên cuồng trước mũi những cỗ xe ủi đất, tay nắm chặt cán một cái ô đã tơi tả đến nỗi không thể sửa chữa, tìm kiếm và tìm kiếm, như thể tính mạng mình phụ thuộc vào điều đó.
Tới cuối ngày hôm đó, cả khu ổ chuột chen chúc dưới bóng Thánh đường Thứ Sáu đã biến mất khỏi mặt đất; nhưng không phải tất cả các nhà ảo thuật đều bị bắt; không phải ai cũng bị lùa lên xe chở đến khu trại rào thép gai tên là Khichripur, trại thập cẩm, ở bờ bên kia Sông Jamuna; chúng không bao giờ tóm được Picture Singh, và người ta kể rằng một ngày sau khi ghetto của giới ảo thuật bị san bằng, một khu ổ chuột mới nghe nói đã mọc lên ở trung tâm thành phố, ngay sát nhà ga xe lửa của Delhi Mới. Xe ủi được điều động đến hiện trường; nhưng chẳng thấy gì. Từ đấy trở đi, sự tồn tại của khu ổ chuột di động của các nhà ảo thuật lưu vong trở thành một sự thật người dân thủ đô ai cũng biết, nhưng đội quân phá nhà không bao giờ tìm thấy nó. Có tin báo nó ở Mehrauli; nhưng khi đội cắt ống dẫn tinh và quân lính kéo đến, họ thấy Qutb Minar chẳng hề bị lều lán của sự bần cùng xâm hại. Lũ chỉ điểm báo rằng nó đã xuất hiện trong khuôn viên của Jantar Mantar, đài chiêm tinh do Jai Singh xây dựng theo lệnh đại đế Mughal; nhưng những cỗ máy hủy diệt, khi đổ xô đến hiện trường, chỉ thấy vẹt và đồng hồ mặt trời. Mãi đến khi Tình trạng Khẩn cấp kết thúc khu ổ chuột di động mới thôi di chuyển; nhưng chuyện đó phải để sau, bởi vì sau rất nhiều trì hoãn, đã tới lúc phải kể, và không được mất tự chủ, về thời gian tôi bị cắm tù tại Khách sạn Góa phụ ở Benares.
Resham Bibi từng rú lên, “Ai-o-ai-o!” - và bà đã đúng: tôi đã gieo họa hủy diệt cho ghetto của các ân nhân của tôi; Thiếu tá Shiva, nhất định là hành động theo chỉ thị trực tiếp của mụ Góa phụ, đã đến khu trại để bắt tôi; trong khi con trai mụ Góa phụ bố trí chương trình làm đẹp đô thị và cắt ống dẫn tinh như một chiêu đánh lạc hướng đối phương. Phải, dĩ nhiên tất cả đã được mưu đồ như thế; và (nếu tôi được phép nhận xét) hết sức hiệu quả. Điều chúng đạt được trong cuộc bạo loạn của giới ảo thuật: một kỳ tích đích thực khi âm thầm bắt được người duy nhất trên đời nắm giữ chìa khóa xác định vị trí của từng đứa trẻ của nửa đêm - bởi chẳng phải tôi đã, đêm này sang đêm khác, bắt sóng với từng người trong số chúng? Chẳng phải tôi đã, suốt bấy lâu, lưu giữ tên họ địa chỉ diện mạo của chúng trong đầu? Tôi sẽ trả lởi câu hỏi ấy: đúng vậy. Và tôi đã bị bắt.
Phải, dĩ nhiên tất cả đã được mưu đồ như thế. Parvati-phù-thủy đã kể hết cho tôi về kình địch của tôi; có thể nào em lại không đề cập đến tôi với hắn? Tôi cũng sẽ trả lời câu hỏi này: không thể nào. Nghĩa là người hùng của chúng ta biết nơi nào, ở thủ đô, kẻ mà chủ nhân của hắn thèm muốn nhất đang ẩn nấp (kể cả cậu Mustapha tôi cũng không biết tôi đi đâu sau khi rời nhà ông; nhưng Shiva biết!) - và, một khi hắn đã phản bội, và, tôi đoán chắc, được hối lộ mọi thứ từ hứa hẹn được thăng cấp đến đảm bảo an toàn cá nhân, thật quá dễ dàng để hắn giao nộp tôi vào tay nữ chủ nhân của mình, tức Madam, mụ Góa phụ với mái tóc hai màu.
Shiva và Saleem, người chiến thắng và nạn nhân; hiểu được mối thù địch giữa chúng tôi thì quý vị sẽ hiểu được thời đại mà mình đang sống. (Nếu đảo ngược lại, tuyên bố này vẫn đúng.)
Ngày hôm ấy, ngoài tự do, tôi còn mất đi một thứ khác: xe ủi đã nuốt mất một cái ống nhổ bạc. Bị tước mất đồ vật cuối cùng gắn bó tôi với một quá khứ hữu hình hơn, dễ xác minh hơn về mặt lịch sử, tôi bị đem đến Benares để đối diện với kết cục của phần đời nội tâm, được nửa đêm ban tặng của mình.
Phải, đó là nơi điều ấy xảy ra, ở cung điện của các góa phụ trên bờ sông Hằng, tại thành phố cổ xưa nhất thế giới còn tồn tại, thành phố đã già khi Buddha còn trẻ, Kasi Benares Varanasi, Thành phố của Ánh sáng Thiêng, quê hương của Cuốn sách Tiên tri, tử vi của mọi tử vi, trong đó mọi cuộc đời, quá khứ hiện tại tương lai, đều đã được ghi lại. Nữ thần Ganga chảy xuống Trái đất trong mái tóc Shiva... Benares, đền thờ của Shiva-vị-thần, là nơi tôi được Shiva-người-hùng mang đến để đối diện định mệnh của mình. Tại xứ sở của tử vi, tôi tiến đến thời điểm từng được Ramram Seth tiên đoán trên gác thượng: “Lính tráng kết án nó... bạo chúa sẽ rán nó!”, người thầy bói đã phán vậy; thực tế thì không có bản án chính thức nào cả - đầu gối Shiva kẹp quanh cổ tôi, vậy thôi - nhưng tôi có ngửi thấy, vào một ngày đông, mùi thứ gì đó bị rán trên chảo sắt...
Xuôi theo dòng sông, qua Scindia-ghat nơi các vận động viên thể dục quấn vải trắng quanh hông tập chống đẩy bằng một tay, qua Manikarnika-ghat, nơi cử hành lễ tang, nơi ta có thể mua lửa thiêng từ những người giữ đuốc, qua xác chết trôi của chó và bò - những sinh linh bất hạnh không có ai mua lửa cho, qua những tu sĩ Bà la môn ngôi dưới ô rơm ở Dasashwamedh-ghat, vận đồ màu nghệ, đang phân phát những lời ban phước... và giờ nó trở nên rõ ràng: một âm thanh kỳ quái, như tiếng chó tru từ xa vọng lại.. đi theo đi theo đi theo âm thanh ấy, và nó thành hình, và ta hiểu ra đó là một tiếng rên thảm thiết bất tận, phát ra từ những cửa sổ buông mành của một cung điện bên sông: Khách sạn Góa phụ! Ngày xửa ngày xưa, nó là tư dinh của một maharajah; nhưng Ấn Độ ngày nay là một quốc gia hiện đại, và những chỗ như thế đều đã bị sung công. Ngày nay tòa cung điện là nhà của các vị vong nhân; họ, hiểu rằng cuộc đời thật sự của mình đã kết thúc cùng cái chết của chồng, nhưng không được phép tìm sự giải thoát bằng sati[3] nữa, đã tìm đến thành phố linh thiêng này để sống nốt những ngày vô nghĩa trong niềm khóc than thống thiết. Cung điện góa phụ là nơi cư trú của một bộ lạc gồm toàn những người đàn bà có bộ ngực bầm tím vô phương cứu chữa, hệ quả của việc đấm ngực thùm thụp liên hồi, có mái tóc bị rứt tả tơi không thể phục hồi, và có giọng nói bị cắt vụn vì liên tục giãi bày đầy ai oán niềm tiếc thương của họ. Đó là một tòa nhà đồ sộ, một mê cung của những căn phòng tí hin ở các tầng trên để nhường chỗ cho các đại sảnh khóc than ở tầng dưới; và phải, đây là nơi điều ấy xảy ra, mụ Góa phụ hút tôi vào trung tâm bí mật của đế chế khủng khiếp của mụ, tôi bị nhốt vào một căn phòng tầng trên nhỏ tí và ăn cơm tù do đám quả phụ mang đến. Nhưng tôi còn có những vị khách khác: người hùng thời chiến mời hai đồng sự của hắn tới, nhằm mục đích đối thoại. Nói cách khác: tôi được khuyến khích trò chuyện. Bởi một bộ đôi cọc cạch, một béo, một gầy, được tôi đặt tên là Abbott-và-Costello[4] vì chưa một lần chúng làm tôi thấy buồn cười.
[3] Thủ tục của người Hindu theo đó người vợ góa sẽ tự thiêu chết theo chồng bằng cách gieo mình vào giàn thiêu xác chồng.
[4] William “Bud” Abbott và Lou Costello, bộ đôi diễn viên hài nổi tiếng ở Mỹ những năm 1940, 1950.
Ở đây tôi ghi nhận một khoảng trắng ân huệ trong ký ức. Không gì có thể khơi dậy trong tôi ký ức về những kỹ năng đối thoại của bộ đôi kém hài hước, mặc đồng phục ấy; không chutney hay rau quả dầm gì có khả năng mở khóa những cánh cửa mà tôi đã khóa kín những ngày ấy phía sau! Không, tôi đã quên, tôi không thể, không định nói bằng cách nào chúng đã dụ được tôi phun ra hết - nhưng tôi không thể lẩn tránh cốt lõi đáng hổ thẹn của vấn đề, ấy là bất chấp việc thiếu-vắng-những-trò-đùa-cợt và thái độ nhìn chung là thiếu cảm thông của thẩm tra viên hai đầu của tôi, tôi cầm chắc là đã nói. Và không chỉ nói: dưới tác động của những thủ đoạn gây áp lực không thể kể tên - đã bị lãng quên - của chúng, tôi trở nên ba hoa tột độ. Cái gì đã trào ra, dào dạt, từ môi tôi (nhưng giờ thì không): tên tuổi địa chỉ ngoại hình. Phải, tôi khai hết, tôi tiết lộ cả năm trăm bảy mươi tám cái tên (bởi vì Parvati, chúng lịch sự báo cho tôi, đã chết, còn Shiva đã đào ngũ sang phe địch, còn năm trăm tám mươi mốt đứa kia đều đang khai...) - buộc phải bội tín vì sự phản bạn của kẻ khác, tôi đã phản bội lũ trẻ nửa đêm. Tôi, Người sáng lập Hội nghị, đã chủ trì sự kết thúc của nó, trong khi Abbott-và-Costello, không hề cười, thỉnh thoảng lại ngắt lời:
“Aha! Tốt lắm! Chưa biết về con bé này!” hoặc, “Anh bạn hợp tác rất tốt, gã đó tụi này mới nghe lần đầu!”
Những chuyện kiểu này là thường. Số liệu thống kê có thể làm rõ bối cảnh tôi bị bắt giam; mặc dù có sự bất đồng đáng kể về con số tù “chính trị” bị bắt giữ trong thời kỳ Khẩn cấp: là ba mươi nghìn, hay một phần tư triệu người đã mất tự do? Mụ Góa phụ tuyên bố: “Đó chỉ là một phần rất nhỏ của dân số Ấn Độ,” Đủ thứ chuyện xảy ra trong thời kỳ Khẩn cấp: tàu hỏa chạy đúng giờ, bọn đầu cơ tiền bẩn cum cúp nộp thuế, đến thời tiết cũng được kiểm soát, và mùa màng thì bội thu; bao giờ cũng có, tôi nhắc lại, một nửa trắng và một nửa đen. Nhưng ở nửa đen, tôi bị xiềng xích trong một căn phòng tí hin, trên tấm thảm rơm là vật dụng duy nhất tôi được phép sở hữu, và chia sẻ bát cơm hằng ngày với gián và kiến. Còn về phần lũ trẻ nửa đêm – cái mưu đồ đáng sợ phải bị đập tan bằng mọi giá ấy - cái bè lũ cùng đồ giết người cắt cổ làm bà Thủ tướng bị ám ảnh chiêm tinh học run lên vì sợ hãi ấy - lũ quái vật bất thường dị dạng của thời điểm Độc lập, những kẻ mà một quốc gia-dân tộc hiện đại không thể phung phí cả thời gian lẫn lòng trắc ẩn ấy - giờ đây, ở tuổi hai mươi chín, thêm bớt độ một hai tháng, chúng bị bắt đến Khách sạn Góa phụ; từ tháng Tư tới tháng Mười hai chúng bị lùa bắt lại, và tiếng rì rầm của chúng bắt đầu tràn ngập những bức tường. Tường xà lim của tôi (mỏng tang, thạch cao bong tróc, trần trụi) bắt đầu rì rầm, vào một tai lành và một tai điếc, về hậu quả của sự khai báo ô nhục của tôi. Một tên tù mũi dưa chuột, trang sức bằng mớ vòng và nhẫn sắt khiến nhiều hoạt động thông thường trở thành bất khả thi - đi đứng, sử dụng cái bô nhôm, ngồi xổm, ngủ - nằm co ro sát lớp thạch cao bong tróc và thì thầm với một bức tường.
Tất cả kết thúc; Saleem đầu hàng nỗi đau của gã. Suốt đời tôi, và cả trong phần lớn những dòng hồi tưởng này, tôi đã cố gắng giữ những đau khổ của mình trong tầm kiểm soát, ngăn chúng làm hoen ố những câu viết của tôi bằng dòng chất lỏng mằn mặn, sướt mướt của chúng; nhưng hết rồi. Không ai cho tôi biết lý do (cho đến khi Bàn tay Mụ Góa phụ...) tại sao tôi bị giam cầm: nhưng ai, trong ba mươi nghìn hay nửa triệu tù nhân, được biết tại sao hay vì đâu? Ai cần được biết? Trong những bức tường, tôi nghe thấy giọng nói lầm rầm của những đứa trẻ nửa đêm: không cần giải thích gì thêm, tôi nức nở qua lần thạch cao bong tróc.
Những gì Saleem đã thì thầm với bức tường từ tháng Tám đến tháng Mười hai năm 1976:
… Hỡi những đứa trẻ. Tôi biết nói thế nào đây? Mà có gì để nói? Tội của tôi lỗi tại tôi. Mặc dầu có thể viện dẫn nhiều lý do: tôi không có lỗi gì trong chuyện Shiva. Đủ mọi loại người đều bị giam, sao ta lại không? Mà tội lỗi là một vấn đề phức tạp, bởi chẳng phải tất cả chúng ta, mỗi cá nhân trong chúng ta, theo một cách nào đấy, đều có phần trách nhiệm - há chẳng phải tập thể nào thì lãnh đạo nấy sao? Nhưng không lời bào chữa nào được đưa ra. Lỗi tại tôi. Tôi. Hỡi những đứa trẻ: Parvati của tôi chết rồi. Và Jamila của tôi, biến mất. Và mọi người. Biến mất dường như cũng là một trong những đặc điểm lặp đi lặp lại suốt lịch sử của tôi: Nadiar Khan biến mất khỏi một thế giới ngầm, lưu lại một tin nhắn; Aadam Aziz cũng biến mất, trước khi bà tôi dậy cho ngỗng ăn; và Mary Pereira, đã đi đâu? Tôi, nằm trong giỏ, biến mất; nhưng Laylah hay Parvati đã biến mất cái phụt không cần sự trợ giúp của thần chú. Giờ đến lượt chúng ta, biến-mất-khỏi-mặt-đất. Lời nguyền biến mất, những đứa trẻ thân mến, rõ ràng đã rỉ sang các cậu. Không, đối với câu hỏi về tội lỗi, tôi dứt khoát không chọn cách nhìn rộng; chúng ta ở quá gần cái-đang-xảy-ra, cái nhìn toàn cảnh là điều bất khả, sau này có thể các nhà phân tích sẽ lý giải tại sao và vì đâu, sẽ truy nguyên các xu thế kinh tế và diễn biến chính trị liên quan, nhưng lúc này, chúng ta đang ở quá gần màn hình, hình ảnh vỡ vụn thành từng điểm nhỏ, và chỉ có thể đưa ra phán xét chủ quan. Vậy thì, một cách chủ quan, tôi cúi gằm mặt đầy hổ thẹn. Hỡi những đứa trẻ: hãy tha thứ.
Không, tôi không chờ được tha thứ. Chính trị, hỡi những đúa trẻ: khi đẹp trời nhất vẫn là điều bẩn thỉu. Đáng lẽ ta nên tránh xa nó, đáng lẽ tôi không bao giờ nên mơ tưởng về mục đích; tôi đi đến kết luận rằng sự riêng tư, cuộc sống cá nhân nhỏ bé của mỗi con người, quan trọng hơn tất cả cái hoạt động vĩ mô bị thổi phồng này. Nhưng muộn rồi. Hết thuốc chữa rồi. Mà thứ gì không chữa được thì phải chịu.
Câu hỏi hay, hỡi những đứa trẻ: phải chịu đựng cái gì? Tại sao chúng ta bị lùa vào đây, từng người một như thế này; tại sao gông cùm đeo quanh cổ chúng ta? Và những cách thức giam cầm kỳ lạ (nếu lời thì thầm của bức tường đáng tin): người-có-khả-năng-phi-thăng bị xích cổ chân xuống sàn, còn người sói bị bắt đeo rọ mõm; người-có-thể-tẩu-thoát-qua-gương phải uống nước qua một lỗ nhỏ trên cái bình có nắp, để cậu ấy không thể biến mất qua bề mặt phản xạ của nước; và cô-gái-có-ánh-mắt-giết-người bị trùm đầu bằng bao tải, hai nhan sắc mê hồn xứ Baud cũng chung số phận. Một người trong chúng ta có thể ăn kim loại; đầu cậu ấy bị ngàm chặt, đến bữa ăn mới tháo ra... điều gì đang được chuẩn bị cho chúng ta? Một điều tồi tệ, hỡi những đứa trẻ. Tôi chưa biết là gì, nhưng nó sắp đến. Hỡi những đứa trẻ; chúng ta, cũng phải chuẩn bị.
Hãy truyền tin này đi: một số trong chúng ta đã trốn thoát. Tôi đánh hơi thấy, qua tường, một số sự vắng mặt. Tin vui, hỡi những đứa trẻ! Chúng không bắt được hết chúng ta. Soumitra, người du hành thời gian, chẳng hạn - Ôi sợ điên rồ tuổi trẻ! Ôi lũ ngốc bọn ta, cứ không chịu tin cậu ấy! - không có ở đây; đang ngao du có lẽ, ở một miền thời gian khác hạnh phúc hơn, đã trốn thoát những kẻ săn đuổi mãi mãi. Không, đừng ghen với cậu ấy; mặc dù tôi cũng thèm muốn cơ hội đào thoát về quá khứ, có lẽ về thời khắc khi tôi, niềm kiêu hãnh của vũ trụ, thực hiện cuộc diễu hành chiến thắng trong vai đứa trẻ sơ sinh quanh các cung điện của William Methwold - Ôi cơn hoài vọng âm ỉ về những thời kỳ của nhiều triển vọng hơn, trước khi lịch sử, như con phố phía sau Bưu điện Trung tâm tại Delhi, bóp hẹp dần lại đến dấu chấm hết cuối cùng này! - nhưng chúng ta đã ở đây rồi; hồi tưởng kiểu này chỉ càng nhụt chí; hãy lấy làm mừng, rằng trong chúng ta có người vẫn tự do!
Và có cả những người đã chết. Chúng cho tôi biết về Parvati của tôi. Người mà trên mặt, tới phút cuối, vẫn hiện lên diện mạo hồn ma rữa nát của... Không, chúng ta không còn là năm trăm tám mươi mốt nữa. Run rẩy trong cái rét tháng Mười hai, bao nhiêu trong chúng ta đang ngồi sau bốn bức tường và chờ đợi? Tôi hỏi cái mũi; nó trả lời, bốn trăm hai mươi, con số của lừa đảo và gian dối. Bốn trăm hai mươi, bị đám góa phụ cầm tù; và còn một kẻ nữa, sải bước trong đôi ủng quanh Khách sạn - tôi ngửi thấy xú khí của hắn đến gần đi xa, mùi hôi thối của sự phản bội! - Thiếu tá Shiva, người hùng thời chiến, Shiva-đầu-gối-bự, trong vai trò cai ngục. Liệu chúng có bằng lòng với bốn trăm hai mươi? Những đứa trẻ: tôi không biết chúng còn chờ bao lâu nữa.
... Không, các cậu đang giễu tôi, thôi đi, đừng đùa nữa. Vì sao từ đâu thế quái nào lại có cái lối thân thiện, cái kiểu hữu hảo này trong những lời xì xầm truyền tai nhau của các cậu? Không, các cậu phải kết tội tôi, thẳng thừng và miễn kháng án - đừng dằn vặt tôi bằng những lời chào hỏi hân hoan khi từng người trong các cậu bị nhốt trong xà lim; đây là lúc nào ở đâu mà còn salaam, namaskar với cậu-dạo-này-thế-nào? - Những đứa trẻ, các cậu không hiểu à, chúng có thể làm bất cứ thứ gì với chúng ta, bất cứ thứ gì - không, sao các cậu có thể nói thế, sao lại chúng-thì-có-thể-làm-gì? Tôi nói các cậu nghe: cùm sắt kẹp vào mắt cá chân rất đau; báng súng để lại trên trán những vết bầm tím. Chúng làm được gì hả? Gí điện vào hậu môn, các cậu ạ; và đấy chưa phải trò duy nhất, còn treo ngược đầu xuống đất, và một ngọn nến - chà, ánh nến lung linh ngọt ngào lãng mạn! - sẽ chẳng hề dễ chịu khi gí, đang cháy, vào da! Thôi ngay đi, bỏ cái trò bạn bè này đi, các cậu không sợ à? Chẳng lẽ các cậu không muốn đấm đá giẫm đạp tôi thành nghìn mảnh? Sao cứ mãi rì rầm hồi tưởng, cứ hoài niệm về những vụ cãi cọ ngày trước, về cuộc chiến giữa vật chất và ý thức, sao các cậu cứ cười cợt tôi bằng vẻ thản nhiên, lãnh đạm, bằng sức mạnh vượt-trên-khủng-hoảng của mình? Nói thật, tôi chịu đấy, hỡi những đứa trẻ: làm sao các cậu có thể, ở tuổi hai chín, ngồi trong xà lim thì thầm nhả nhớt với nhau? Mẹ kiếp, đây đâu phải một cuộc hội ngộ bạn bè!
Hỡi những đứa trẻ, những đứa trẻ, tôi xin lỗi. Tôi công nhận rằng dạo gần đây tôi không còn là chính mình nữa. Tôi đã là một buddha, một con ma trong giỏ, một cứu-tinh-hụt của đất nước... Saleem đã cắm đầu chạy vào ngó cụt, gặp những vấn đề nghiêm trọng với hiện thực, từ khi cái ống nhổ rơi xuống như một mảnh... hãy thương xót tôi: tôi thậm chí đã đánh mất cái ống nhổ. Mà tôi lại nói linh tinh rồi, tôi không định cầu xin sự thương hại, tôi muốn nói rằng có lẽ tôi biết - chính tôi, chứ không phải các cậu, đã không hiểu điều gì đang xảy ra. Thật phi thường, hỡi những đứa trẻ: chúng ta, những người không thể nói chuyện quá năm phút mà không bất đồng; chúng ta, những người hồi bé từng cãi cọ xung đột chia rẽ ngờ vực tan rã, thì nay bỗng lại đoàn kết thành một khối! Ôi sự trớ trêu kỳ diệu: mụ Góa phụ, khi nhốt chúng ta vào đây, hòng đập tan chúng ta, kỳ thực đã mang chúng ta đến với nhau! Ôi cơn cuồng vọng tự thân ứng nghiệm của bạo chúa... bởi vì bọn chúng có thể làm được gì, khi giờ chúng ta đã cùng một trận tuyến, không còn mâu thuẫn ngôn ngữ, không còn định kiến tôn giáo: nói cho cùng, chúng ta đã hai mươi chín tuổi rồi, tôi không nên gọi mọi người là những đứa trẻ nữa...! Phải, đây là niềm lạc quan, như một bệnh dịch: một ngày kia mụ ta sẽ phải thả chúng ta ra và khi đó, khi đó, cứ chờ xem, có thể chúng ta nên thành lập, tôi không biết, một chính đảng mới, phải, đảng Nửa đêm, chính trị có cơ hội gì trước những người có thể nhân một con cá thành nhiều và hóa sắt thành vàng? Hỡi những đứa trẻ, có một thứ sắp ra đời ở đây, vào thời khắc đen tối của sự tù đày; hãy cứ để lũ Góa phụ giở trò tồi tệ nhất; đoàn kết là vô địch! Hỡi những đứa trẻ: chúng ta đã thắng!
Quá đau đớn. Sự lạc quan, nảy nở như hoa hồng gặp phân: nó làm tôi đau xót khi hồi tưởng lại. Đủ rồi! Sau đó thế nào tôi quên rồi. - Không! - Không, thôi được, tôi vẫn nhớ... Thứ gì đáng sợ hơn gông cùm xiềng xích nến-cháy-gí-vào-da? Thứ gì ăn đứt nhổ móng tay và bỏ mặc cho chết đói? Tôi xin tiết lộ trò đùa ma mãnh nhất, tinh vi nhất của mụ Góa phụ: thay vì tra tấn chúng tôi, mụ cho chúng tôi hy vọng. Nghĩa là mụ có một thứ - không, không chỉ một thứ: mà là thứ quý giá hơn hết thảy! - đế lấy đi. Và giờ, rất sớm thôi, tôi sẽ phải miêu lả mụ đã cắt đứt nó ra sao.
Ectomy (khởi nguồn từ tiếng Hy Lạp, chắc vậy): sự cắt bỏ. Từ đây, y học đã bổ sung nhiều tiền tố: appendectomy tonsillectomy mastectomy tubectomy vasectomy testectomy hysterectomy[5]. Saleem xin đóng góp thêm một mục từ nữa, miễn phí và cho không, vào danh mục các phẫu thuật cắt bỏ này; đây, tuy vậy, là một thuật ngữ đúng ra phải thuộc về lịch sử, mặc dù y học cũng có, đã có phần đóng góp:
Sperectomy: sự hút kiệt hy vọng.
[5] Các thuật ngữ y khoa có nghĩa là: cắt bỏ ruột thừa, cắt bỏ amiđan, cắt bỏ ngực, cắt bỏ ống dẫn trứng, cắt bỏ ống dẫn tinh, cắt bỏ tinh hoàn, cắt bò tử cung.
Ngày đầu năm mới, tôi có khách. Tiếng kẹt cửa, tiếng loạt soạt của vải chiffon đắt tiền. Tông màu: xanh đen. Kính ả, xanh, giày ả đen thật đen... Báo chí miêu tả ả là “một cô gái quyến rũ, với cặp hông đầy đặn, đong đưa... quản lý một tiệm kim hoàn nhỏ trước khi làm công tác xã hội... Thời kỳ Khẩn cấp, cô phụ trách, một cách bán chính thức, chương trình triệt sản.” Nhưng tôi có tên riêng cho ả: ả là Bàn tay của mụ Góa phụ. Chộp từng đứa một và lũ trẻ ú ớ và xé và xé những trái bóng nhỏ lăn lóc... vừa xanh vừa đen, mụ đột kích xà lim của tôi. Hỡi những đứa trẻ: bắt đầu rồi. Hãy sẵn sàng. Đoàn kết là sức mạnh. Mặc kệ Bàn Tay mụ Góa phụ làm việc của mụ Góa phụ, rồi ta sẽ, ta sẽ... hãy nghĩ đến sau này. Giờ thì gắng đừng nghĩ đến... và ả, ngọt ngào, điềm đạm, “Về căn bản, cậu biết đấy, đây hoàn toàn là một câu hỏi về Chúa.”
(Những đứa trẻ, các cậu có nghe không? Truyền tai nhau đi.)
“Người dân Ấn Độ,” Bàn Tay của mụ Góa phụ giải thích, “tôn thờ Đức bà như một vị thần. Ấn Độ chỉ có thể tôn thờ một Chúa.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian